Tiếng Việt
English
Search
“CHUẨN MỰC - SÁNG TẠO - TIÊN PHONG”

Giáo sư Lê Bá Thảo, người tình chung thủy của thiên nhiên


17-02-2012
Với cụm công trình: Thiên nhiên, lãnh thổ và các vùng địa lý Việt Nam, gồm ba công trình: Thiên nhiên Việt Nam (1977), Việt Nam: Lãnh thổ và các vùng địa lý (1998) và Lê Bá Thảo: Những công trình địa lý tiêu biểu (2007), Cố GS Lê Bá Thảo đã được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN năm 2010.

 
GS Lê Bá Thảo (1923 - 2000)
(Ảnh do gia đình Giáo sư cung cấp)

 Giáo sư Lê Bá Thảo sinh năm 1923, vào tuổi Quý Hợi, trong một gia đình công chức, được theo học trường Providence dành cho con Tây ở Huế. Ở đây từ bé ông được trau dồi tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng La tinh và tiếng Hy Lạp cổ một cách thuần thục. Đậu tú tài triết học rồi theo học Y khoa Đại học Đông Dương ở Hà Nội được gần hai năm thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ở ngã ba đường lúc đó trong bạn bè trí thức có hai khuynh hướng đi theo kháng chiến hay ở lại nội thành tiếp tục theo đuổi học hành, khoa cử. Không phải số phận mà lòng yêu nước đã đưa Lê Bá Thảo - một chàng trai 27 tuổi, cựu sinh viên trường Đại học Đông Dương - đến quyết định “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” coi “công danh như phù vân”, đưa tấm thân mảnh dẻ của cậu sinh viên dài lưng tốn vải vào quân đội để được chiến đấu cho tự do của đất nước.

Vốn có học vấn lại năng nổ và tháo vát, ông được cử vào khu Bốn làm Trưởng ban địa đồ tham gia khảo sát và thiết kế con đường chiến lược nối liền khu Bốn và khu Ba. Lê Bá Thảo và ba người nữa lặn lội từ Yên Lại (Nho Quan) đến Phố Cát (Thanh Hóa), không ai có kiến thức về cầu đường, không một chiếc máy đo đạc cầm tay, tất cả công việc đều dựa vào những hiểu biết và tinh thần tháo vát của một cựu hướng đạo sinh hăng hái.

Cuối năm 1947, Lê Bá Thảo được lệnh ra Việt Bắc. Tại Bộ Quốc phòng của Chính phủ kháng chiến, ông được đích danh Thứ trưởng Tạ Quang Bửu giao trách nhiệm là “tham chính văn phòng”, theo dõi hoạt động của ngành hậu cần, làm phái viên xuống các mặt trận được nóng bỏng. Chính những chuyến đi ấy cho ông điều kiện đặt chân lên nhiều vùng khác nhau của đất nước, nghiên cứu kỹ càng địa thế hiểm trở cho quân sự, củng cố cho ông tình yêu thiên nhiên. Sau này ông nói: nếu không đi kháng chiến thì chưa chắc tôi đã trở thành nhà địa lý.

Theo đánh giá của Hội đồng Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, cụm công trình có những thành tựu khoa học đặc biệt xuất sắc: đã tổng kết và đánh giá một cách toàn diện và đúng đắn tiềm năng của đất nước Việt Nam (về tự nhiên, dân cư, các hoạt động kinh tế), đặt cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam trong giai đoạn mới; có giá trị khoa học rất cao về lý luận, phương pháp luận địa lý hiện đại; có những đóng góp lớn về lý luận tổ chức lãnh thổ, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam (lần đầu tiên ở nước ta vấn đề tổ chức lãnh thổ được nhìn nhận theo cách tiếp cận chiến lược).

Cụm công trình đã có những đóng góp to lớn trong thực tế: đã xác định được các cực phát triển và các tuyến trọng điểm cho cả nước và mỗi vùng lãnh thổ, làm bộ khung cho việc tổ chức lãnh thổ; đã đánh giá lại và phát hiện những đặc tính, thế mạnh, những hạn chế và những điểm chưa hợp lý trong phát triển các vùng lãnh thổ, đồng thời đã đề xuất những định hướng chiến lược và những giải pháp cụ thể về tổ chức lãnh thổ để phát triển kinh tế-xã hội trên quy mô cả nước và các vùng địa lý đã thực sự phát huy tác dụng to lớn phục vụ sự nghiệp cách mạng, có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài trong đời sống nhân dân, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của khoa học địa lý, kinh tế, văn hóa-xã hội cũng như trong sự nghiệp giáo dục đào tạo của đất nước.

Bước ngoặt quan trọng của cuộc đời Lê Bá Thảo là sau chiến dịch Biên giới, lúc ông được điều sang dạy học ở Khu Học xá Trung ương năm 1952. Từ một sinh viên dự bị y khoa, Lê Bá Thảo thành thầy dạy địa lý. Ông không phàn nàn gì về nhiệm vụ mới này. Ở đây ông được gặp và được làm việc với những nhà khoa học đàn anh nổi tiếng như Nguyễn Xiển, Ngụy Như Kon Tum, Lê Văn Thiêm… và các bạn cùng lứa như Hoàng Tụy, Nguyễn Cảnh Toàn, Đinh Gia Khánh, Hoàng Như Mai… Tình yêu thiên nhiên ban đầu đã biến thành niềm say mê khám phá một ngành khoa học hầu như còn rất mới mẻ của xứ sở.
Kháng chiến thành công, Lê Bá Thảo trở về Hà Nội, dạy học tại Đại học Việt Nam. Hồi đó giảng đường đặt ngay tại ngôi trường ông đã từng học mười năm trước khi lên đường kháng chiến trên đường Lê Thánh Tông, dưới bóng những cây me, cây sấu đầy vẻ u hoài của Thủ đô cổ kính. Cùng với những giáo sư đồng sự như Hoàng Thiếu Sơn, Trần Đình Gián, Nguyễn Đức Chính, ông đặt những viên gạch đầu tiên cho khoa học địa lý Việt Nam. Trước đây, người Việt phải nghe giảng, phải đọc sách của người Pháp viết để hiểu non sông đất nước mình. Giờ đây hoài bão của ông và các đồng sự là chúng ta sẽ làm nên địa lý học của chính chúng ta.

Sau nhiều năm giảng dạy và xây dựng khoa Địa lý từ 1959 được đặt ở Đại học Sư Phạm, Lê Bá Thảo lên đường sang đại học Lô-mô-nô-xốp để thực tập và nghiên cứu địa lý. Trong những ngày này, ông đã có dịp tham gia những đoàn nghiên cứu quan trọng của Viện Hàn lâm Liên Xô, làm quen và trao đổi khoa học với những bác học nổi tiếng của Liên Xô và nhiều nước khác. Sau ngày trở về nước, ông bắt đầu viết những công trình nghiền ngẫm lâu nay và tham gia nhiều chương trình, đề tài khoa học trong khi vẫn giữ cương vị chủ nhiệm khoa Địa tại trường Đại học Sư phạm I, ngôi trường ông đã gắn bó hầu như suốt đời. Nhưng ông vẫn nôn nao được đi, được nghiên cứu thiên nhiên và địa lý đất nước.

Thời cơ đã đến, đất nước đã thống nhất một dải. Trong cái vui chung, cái vui của nhà địa lý còn gấp bội. Cuộc tổng điều tra cơ bản các vùng lãnh thổ của Nhà nước đã chắp cánh cho Lê Bá Thảo. Ông được giao làm cố vấn khoa học, rồi chủ nhiệm các chương trình nghiên cứu Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và miền Tây Nguyên. Như cá gặp nước, đây là cơ hội tuyệt vời để một lần nữa Lê Bá Thảo được đắm mình trong thiên nhiên đất nước, Rồi đến thời kỳ đổi mới. Đó là thời gian nhà địa lý Lê Bá Thảo làm việc có hiệu quả nhất, hào hứng nhất. Ông bỏ ra ngoài mọi toan tính xa lạ với nhân cách một nhà khoa học để toàn tâm toàn ý phục vụ khoa học địa lý, tình yêu của đời ông.

Những hoạt động của ông trong các Ủy ban và Hội đồng của Chính phủ liên quan đến địa lý với tư cách Chủ tịch Hội Địa lý Việt Nam và Chủ tịch bộ môn Địa lý Bộ Giáo dục đào tạo đã được đánh giá cao. Nhưng các công trình khoa học, những tác phẩm của ông về khoa học địa lý mới được mọi người và chính ông coi trọng hàng đầu. Miền núi và con người (1970), Cơ sở địa ký tự nhiên (1983-1984), Địa lý đồng bằng sông Cửu Long (1986), Thiên nhiên Việt Nam (1977), Tổ chức đồng bằng sông Hồng và tuyến trọng điểm (1994), Tổ chức lãnh thổ Việt Nam (1996) và Việt Nam, lãnh thổ và các vùng địa lý (NXB Thế Giới 1998-607 trang, được in bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung và tiếng Việt). Những tác phẩm đó tuy chỉ là một phần công trình khoa học đồ sộ nhất của Lê Bá Thảo cũng đã đủ để đưa ông lên một trong những vị trí cao nhất của khoa học địa lý nước nhà. Đặc biệt cuốn Việt Nam, lãnh thổ và các vùng địa lý đã gây được tiếng vang lớn ở Paris ngay sau khi bản tiếng Pháp ra đời. Trên tờ AFRASE (Hiệp hội nghiên cứu về Đông Nam Á của Pháp), nữ giáo sư Manuelle Franck tại INALCO (Viện nghiên cứu ngôn ngữ và văn minh phương Đông quốc gia Pháp) viết ngay sau khi bà mới được đọc bản tiếng Anh: “AFRASE không có lệ điểm sách xuất bản bằng tiếng Anh, nhưng đối với cuốn sách này của Lê Bá Thảo là một ngoại lệ”. Và bà khẳng định: “Đây là cuốn sách vượt hẳn lên mọi cuốn sách địa lý Việt Nam đã được xuất bản đến hôm nay” (Afrase số 47/1998).

***
Giáo sư Lê Bá Thảo, con người thẳng thắn, giản dị, có cái nhìn nhân hậu và có tình người ấy rất dễ gần tuy ta vẫn nhận ra cái “cốt cách kiêu ngạo” bên trong. Người trí thức Tây học xuất thân từ một gia đình công chức ấy cuối cùng đã trở thành đảng viên cộng sản. “Tôi đã thích nghi được, vất vả, đau đớn nữa là khác. Nhưng tôi thích nghi và không đánh mất chính mình”- đó là điều ông nói với tôi khi ông đã ở tuổi 76. Trả lời câu hỏi, những gì ông tâm đắc nhất trong một đời làm người tình chung thủy của địa lý Việt Nam, ông đáp: “Có chứ! Đó là vấn đề tổ chức lãnh thổ hay tổ chức không gian” (L’organisation de l’espace) của đất nước. Trước đây, những nhà địa lý lớn người Pháp về Việt Nam như P.Gourou tuy có nghiên cứu sâu sắc về địa lý Đông Dương, nhưng họ chưa có thể bàn về vấn đề tổ chức không gian, đơn giản vì phương hướng này chỉ mới bắt đầu xuất hiện ở Mỹ và phương Tây từ năm 1950. Trong cuốn sách mới xuất bản gần đây tôi đã trình bày được cặn kẽ vấn đề đó nhằm mục đích sử dụng tài nguyên thiên nhiên của đất nước tốt hơn. Tôi cũng đã đi tới những kết luận trong việc nghiên cứu phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng lãnh thổ và cuối cùng là những dự báo cần thiết cho tương lai. Quả thực trước đây những vấn đề đó vẫn còn là những trang trắng trong khoa học địa lý nước nhà”. Như tôi hiểu, Lê Bá Thảo đã đột phá một bước lớn trong việc nâng cao và biến đổi căn bản phương hướng nghiên cứu địa lý học nước nhà. Trước đây, địa lý chỉ là một khoa học mô tả thiên nhiên. Với phương hướng “tổ chức không gian” địa lý đã biến thành một khoa học hướng dẫn hành động và được ứng dụng trong thực tiễn.

Tôi cũng biết sự đánh giá cao của bạn bè, đồng nghiệp và nhiều nhà địa lý đương đại trên thế giới về những công trình nghiên cứu của ông. Tiến sĩ Patroce Cosaert, Giáo sư Đại học La Rochelle đã cho rằng nội dung Chương trình Quy hoạch lãnh thổ đồng bằng sông Hồng do Giáo sư Lê Bá Thảo đưa ra đã thu hút được sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, những người phụ trách quy hoạch về kết cấu không đồng đều của lãnh thổ, về tầm quan trọng của việc điều tra và nghiên cứu trên thực địa trước khi đi đến quyết định qui hoạch phát triển. Cụ thể giáo sư đã phân biệt lãnh thổ đồng bằng sông Hồng thành hai vùng: vùng 1 là bản thân tam giác phát triển với các cực Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long đã được công nghiệp hóa và có khả năng thu hút các nhà đầu tư; vùng 2 chủ yếu là nông nghiệp đang còn ở trong nền kinh tế khép kín vì thiếu đường giao thông. Đặc biệt Giáo sư đã nhấn mạnh vai trò của thành phố (gọi là các cực phát triển) và các trục giao thông (các tuyến lực) trong kiến trúc của không gian. Hai khái niệm nay lần đầu tiên được GS Lê Bá Thảo đưa ra chắc chắn sẽ được sử dụng lâu dài trong tư duy của các nhà lãnh đạo và các nhà qui hoạch.

Nguyễn Quang Thân

Theo: www.tiasang.com.vn

 

Lê Bá Thảo, những công trình khoa học địa lý tiêu biểu 
 

 

 
   
 

Đúng vào dịp giỗ lần thứ Bảy GS Lê Bá Thảo và Kỷ niệm 25 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/2007, Nhà xuất bản Giáo dục đã kịp thời cho ra mắt công trình: Lê Bá Thảo, những công trình khoa học địa lý tiêu biểu. Công trình được tuyển chọn bởi GS. TS Nguyễn Viết Thịnh, PGS. TS Nguyễn Kim Chương, PGS. TS Đỗ Thị Minh Đức và TS Nguyễn Giang Tiến.

Bạn đọc có thể đặt mua sách tại Nhà xuất bản Giáo dục Đà Nẵng, 15 Nguyễn Chí Thanh, TP Đà Nẵng, hoặc đặt mua qua Trung tâm Địa lý ứng dụng và Khoa Địa lý Đại hoc Sư phạm Hà Nội, 136 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội (Điện thoại 04-8346826).

Cuốn sách dày ngót 1000 trang. Giá bìa: 150 nghìn đồng.

Chúng tôi vui mừng giới thiệu cùng các đồng nghiệp và bạn đọc xa gần cuốn sách quý trên trong Di cảo của GS Lê Bá Thảo, nhà địa lý lớn của nước ta.

Bạn đọc sẽ tìm lại được những công trình của Giáo sư (trong đó có cả những công trình lần đầu tiên được xuất bản) những tư tưởng khoa học sâu sắc, phong cách viết tài hoa, tầm nhìn của nhà địa lý vừa mang tính thời đại, vừa có tính dự báo, chiêm nghiệm.

Chúng tôi xin giới thiệu dưới đây bài viết của GS. TS Nguyễn Viết Thịnh, nguyên trưởng khoa Địa lý ĐHSP Hà Nội, hiện là Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội. Bài viết đã được đăng trong công trình trên dưới tiêu đề: Giáo sư Lê Bá Thảo, nhân cách và sự nghiệp.

 

GIÁO SƯ LÊ BÁ THẢO, NHÂN CÁCH VÀ SỰ NGHIỆP

GS. TS Nguyễn Viết Thịnh

Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

 Tôi là một trong những học trò gần gũi của GS Lê Bá Thảo. Lẽ ra, trong bài viết này tôi phải luôn gọi Giáo sư là Thày, nhưng để tiện cho bạn đọc đông đảo, tôi xin gọi Giáo sư là Ông. Xin bạn đọc hiểu và lượng thứ cho. Bên cạnh những cảm nhận của cá nhân tôi về người thầy lớn, thì những thông tin về Ông là dựa trên những bản lí lịch đảng viên, những bản tự thuật và những thư từ trao đổi mà TS Nguyễn Giang Tiến, người vợ yêu quý của Ông, đồng nghiệp của tôi, cung cấp.

 

Giáo sư Lê Bá Thảo sinh ngày 18 tháng 4 năm 1923 tại một làng nhỏ thuộc huyện Hương Thủy, ở ngoại thành thành phố Huế, trong một gia đình công chức nhỏ, đông anh chị em (ông có tất cả 11 anh chị em ruột). Cụ bà thân sinh ra ông là Tôn Nữ thuộc dòng quý tộc triều Nguyễn. Trong các tự thuật sau này, ông nhớ lại, vì là con nhà nghèo nên ngay từ nhỏ ông đã cố gắng học giỏi để có học bổng và dạy tư để đỡ đần cha mẹ. Mảnh đất nghèo miền Trung và hoàn cảnh kinh tế gia đình eo hẹp, nợ nần quanh năm đã giúp ông gần gũi hơn với cuộc sống của nhân dân cần lao, sớm đến với cách mạng một cách rất tự nhiên. Ông có 5 anh em trai, thì bốn người đi theo kháng chiến ngay từ đầu.

Đỗ tú tài toàn phần tại Huế năm 1944, ông trở thành sinh viên Đại học Y khoa Hà Nội. Tại đây, ông sớm giác ngộ cách mạng, tham gia trong phong trào học sinh, sinh viên yêu nước. Khi cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông đang về nghỉ hè tại quê nhà, và ông đã cùng với các bạn bè trong đoàn Hướng đạo ở Huế tham gia tổ chức tuần hành võ trang cướp chính quyền ở Huế. Đầu tháng 9 năm 1945, ông gia nhập chi đội Giải phóng quân đầu tiên tại Huế, và được cử làm trưởng ban thông tin liên lạc quân sự thành phố Huế, sau đó là trưởng ban thông tin liên lạc quân sự Khu Bốn và mặt trận Lào, chiến đấu tại các mặt trận gian khổ nhất ở Huế, ở Lào.

Hiệp định sơ bộ được kí kết, ông trở lại trường Đại học Y để học tiếp, nhưng rồi toàn quốc kháng chiến. Tháng 12 năm 1946, ông nhận được giấy triệu tập của Bộ Quốc phòng (do Bộ trưởng Tạ Quang Bửu kí) cầm đầu một nhóm mở đường liên lạc giữa Khu Ba và Khu Bốn, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Ông tự hào rằng con đường mà ông vẽ sơ đồ từ Yên Lạc đi Phố Cát đã được các chiến sĩ công binh mở đường và trở thành tuyến đường liên lạc huyết mạch trong kháng chiến. Phải chăng sự kiện này đánh dấu sự hình thành lối rẽ trong cuộc đời để ông trở thành nhà địa lí chuyên nghiệp. Tôi nhớ mãi lần gặp ông vào một tối giữa tháng 10 năm 2000. Đó là đúng vào hôm ông vừa cùng đoàn cán bộ của Liên hiệp Hội KHKT Việt Nam đi thị sát một đoạn đường Hồ Chí Minh, suốt từ rừng núi Hoà Bình đến rừng Cúc Phương để góp ý vào dự án đường Hồ Chí Minh. Khi tham gia chuyến thực địa, ông đã quên đi rằng ông đang mắc bệnh tiểu đường và tuổi cao. Vì vậy, hôm ấy ông rất mệt. Ông phải nghỉ giữa cầu thang để đi từ tầng hai xuống tầng một tiếp khách. Nhưng hiện lên trước mặt tôi lúc đó là một chiến sĩ Lê Bá Thảo, tôi đã nhận thấy ông đã hào hứng vô cùng khi gặp lại con đường mà một thời trai trẻ ông đã cùng các chiến sĩ - đồng nghiệp tham gia vạch tuyến. Tiếc thay, sau chuyến đi ấy ít ngày, ông phải nhập viện và không trở về nhà nữa.

Ông còn tiếp tục công tác họa đồ quân sự một thời gian nữa, và từ năm 1948 ông được điều động làm tham chính văn phòng Bộ Quốc phòng, đi thị sát các chiến trường. Ông đã tham gia mặt trận Cao Bắc Lạng với tư cách là phái viên tham mưu mặt trận của sư đoàn 308. Ông đã được làm việc bên cạnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, GS Trần Đại Nghĩa, GS Tạ Quang Bửu, Thiếu tướng Vương Thừa Vũ. Việc tham gia vào công cuộc kháng chiến kiến quốc vĩ đại của dân tộc đã góp phần không nhỏ hình thành nhân cách của nhà khoa học, trí thức yêu nước Lê Bá Thảo.

Tình yêu quê hương đất nước cùng với nỗi cảm thông sâu sắc với nhân dân trên các miền đất mà ông đã đặt chân đã hoá thân vào ngòi bút của ông mỗi khi ông viết về địa lí nước nhà, làm cho các tác phẩm khoa học của ông có sức lay động lớn lao, cả với những ai không theo nghề địa lí.

Năm 1951, cục diện cuộc kháng chiến đã thay đổi, ông được điều động về công tác tại Trường Sư phạm Trung ương mới được thành lập ở Việt Bắc và sau đó giảng dạy tại khu học xá Trung ương đặt tại Nam Ninh (Trung Quốc). Từ năm 1957 ông là cán bộ giảng dạy của Khoa Địa lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, là thế hệ cán bộ giảng dạy đầu tiên của Khoa Địa lí. Năm 1961, ông được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh tại Trường đại học Lômônôxôp, rồi lần lượt giữ các chức vụ quản lí: Chủ nhiệm bộ môn Địa lí tự nhiên, Phó chủ nhiệm khoa rồi Chủ nhiệm khoa Địa lí. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1971. Giáo sư Lê Bá Thảo đã cống hiến liên tục cho ngành giáo dục suốt nửa thế kỉ, sau khi được nghỉ hưu ông vẫn tiếp tục giữ trọng trách là Chủ tịch Hội đồng bộ môn Địa lí của Bộ Giáo dục Đào tạo, Chủ tịch Hội đồng thẩm định sách giáo khoa Địa lí ở trường phổ thông. Ông vẫn tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh (trong đó có hai NCS nước ngoài) và đào tạo đội ngũ các nhà địa lí cốt cán cho đến hơi thở cuối cùng.

Giáo sư Lê Bá Thảo là một nhà sư phạm suất sắc. Những bài giảng của ông không chỉ đầy ắp các thông tin, kiến thức địa lí mà còn là mẫu mực về phương pháp giảng dạy nêu vấn đề. Trong giờ giảng của ông, cánh sinh viên chúng tôi luôn phải tập trung tư tưởng cao độ, bởi vì ông hay đưa ra những câu hỏi làm đảo lộn cả tư duy thông thường của chúng tôi, làm cho chúng tôi phải lúng túng, nhưng đồng thời cũng làm cho chúng tôi cảm nhận được cái đẹp của tư duy địa lí, tư duy tổng hợp, gắn với bản đồ, vừa có triết lí sâu xa, vừa gắn với thực tiễn sống động. Chúng tôi đã được nghe ông giảng nhiều giáo trình, trong đó giáo trình về "Các vấn đề cơ bản và hiện đại của địa lí học" với chiều sâu lí luận đã luôn dẫn dắt chúng tôi sau này. Ông cũng thường khuyên chúng tôi khi xây dựng các sơ đồ, lược đồ trong các sách giáo khoa là phải làm sao vạch ra được sơ đồ của tư duy khoa học. Sau này, có dịp lần giở những trang sách giáo khoa được ông góp ý, với những nhận xét ghi bằng bút chì, bút mực bên lề, tôi vẫn cảm nhận đang được ông chỉ bảo tận tình.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian khổ, ông hoàn thành giáo trình "Phương pháp nghiên cứu và giảng dạy địa lí địa phương" (hai tập, Nhà xuất bản Giáo dục, 1967-1968). Bộ sách này đã được phổ biến rộng rãi và là giáo trình đầu tiên theo hướng này. Chúng tôi muốn nói rằng hiện nay đã có một số sách về địa lí địa phương, chủ yếu là địa lí địa phương cấp tỉnh, nhưng các sách này pha trộn tính chất địa phương chí, cung cấp thông tin là chính. Giáo trình của GS Lê Bá Thảo có lẽ là bộ giáo trình sớm nhất nhưng cũng đầy đủ nhất về phương pháp nghiên cứu và giảng dạy địa lí địa phương, hướng dẫn giáo viên cách phát hiện các vấn đề khảo sát địa phương và cả các chỉ dẫn cụ thể (vừa có lí thuyết, vừa súc tích, dễ tra cứu, lại vừa có chỉ dẫn theo kiểu "cầm tay chỉ việc").  Bộ giáo trình "Cơ sở Địa lí tự nhiên" (ba tập, 1983-1984) do giáo sư chủ biên đã được giải thưởng của Nhà xuất bản Giáo dục và đến nay vẫn là cuốn sách gối đầu giường cho sinh viên địa lí của các Trường ĐHSP và cả ở khoa Địa lí của Đại học khoa học tự nhiên.

Trong sự phát triển của Khoa Địa lí, Giáo sư Lê Bá Thảo đã để lại những dấu ấn sâu sắc. Đó là nhờ ở tư duy sắc sảo, trình độ chuyên môn cao, tính quyết đoán trong quản lí và cá tính mạnh mẽ của ông. Những thế hệ cán bộ giảng dạy của Khoa ngày hôm nay biết ơn sâu sắc thế hệ của những người "khai sơn phá thạch" đã đặt nền móng cho sự phát triển khoa học và đội ngũ của Khoa, trong đó có Giáo sư Lê Bá Thảo.

Giáo sư Lê Bá Thảo là một người rất trung thực trong khoa học. Không phải ai cũng dễ dàng tiếp nhận các lời phê phán sắc sảo và thẳng thừng của ông, nhưng chúng tôi hiểu rằng sự cầu toàn của ông về chuyên môn thể hiện rõ nhân cách của ông và cũng là cách ông thể hiện sự trân trọng đối với lao động khoa học.

Giáo sư Lê Bá Thảo là một nhà hoạt động xã hội rất tích cực. Nối tiếp công việc của GS. NGND Nguyễn Đức Chính và GS. NGND Trần Đình Gián, ông đã đóng vai trò là Trưởng ban vận động thành lập Hội Địa lí Việt Nam, và vào năm 1988, Hội Địa lí Việt Nam, một Hội nghề nghiệp trong Liên hiệp hội Khoa học kĩ thuật Việt Nam đã được thành lập và Giáo sư được bầu là Chủ tịch Hội đầu tiên. Lúc đó, ông đã 65 tuổi. Ông đã giữ trọng trách này liền ba nhiệm kì.

Với tư cách là Chủ tịch Hội Địa lí, Giáo sư Lê Bá Thảo đã có nhiều nỗ lực để củng cố vai trò xã hội của khoa học Địa lí. Bản thân ông đã làm chủ nhiệm các công trình độc lập cấp Nhà nước như "Tổ chức lãnh thổ đồng bằng sông Hồng và các tuyến trọng điểm" (1992-1994), "Cơ sở khoa học của tổ chức lãnh thổ Việt Nam" (1994-1996). Giáo sư được mời làm cố vấn cho một số Viện nghiên cứu trong nước như Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), uỷ viên Hội đồng khoa học của Bộ Thuỷ sản (1998), cố vấn khoa học của Chương trình Tổ chức lãnh thổ địa bàn trọng điểm miền Trung. Những công trình lớn của đất nước có liên quan đến tổ chức lãnh thổ và các vấn đề môi trường đều có tiếng nói đóng góp khoa học của ông. Giới khoa học đánh giá cao những ý kiến thẳng thắn, đấu tranh kiên quyết của Giáo sư cho sự phát triển bền vững của môi trường Việt Nam. Giáo sư cũng đã tích cực phát triển quan hệ của Hội Địa lí Việt Nam với các Hội Địa lí trên thế giới, đặc biệt là với địa lí Pháp và Mĩ. Trong suốt 4 năm (1996-1999), mặc dù tuổi cao và đang phải chạy đua với thời gian, GS Lê Bá Thảo đã cùng với Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Duy Quý làm đồng chủ nhiệm chương trình nghiên cứu về làng xã ở đồng bằng sông Hồng. Đây là chương trình cộng tác giữa Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Viễn đông Bác cổ Pháp, được tài trợ bởi Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam. GS Lê Bá Thảo đã không kịp được nhìn công trình nghiên cứu mà ông đã chỉ đạo trong suốt bốn năm. Trong lời đề tựa công trình "Làng ở vùng đồng bằng sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ" do Philippe Papin và Olivier Tessier làm chủ biên (Trung tâm KHXH và NVQG xuất bản năm 2002), những người bạn Pháp đã trân trọng viết đề tặng GS Lê Bá Thảo, nhà địa lí lớn, người bạn không thay thế được của tất cả chúng tôi (xin đăng lại nguyên văn tiếng Pháp) "Cet ouvrage est le fruit d''un programme de recherche scientifique mené durant quatre années sous la direction du Professeur Lê Bá Thảo. Il est décidé à la mémoire de ce grand géographe qui était aussi, pour nous tous, un irremplaçable ami".  

Các công trình nghiên cứu tiêu biểu của Giáo sư về lĩnh vực địa lí tự nhiên như "Đời sống con sông" (1966), "Miền núi và con người" (1970), "Thiên nhiên Việt Nam" (NXB KHKT 1977,1990; NXB GD, 2000), "Địa lí đồng bằng sông Cửu Long" (1986).

Cuốn Thiên nhiên Việt Nam (được viết trong 3 năm 1974-1976) là cuốn sách độc đáo, rất cuốn hút người đọc. Thiên nhiên ở đây hoà quyện với con người và hoạt động sản xuất, cải tạo tự nhiên ở khắp mọi miền đất nước. Cuốn sách hấp dẫn bởi văn chương, nhưng đằng sau những mô tả sinh động là toàn bộ tính quy luật trong phân hoá lãnh thổ tự nhiên nước ta. Cuốn sách được hoàn thành trong khí thế hào hùng của đất nước thống nhất sau hàng chục năm chiến tranh, và để hoàn thành chuyên khảo này, ông đã có những chuyến công tác hàng tháng dài ở miền đất phía Nam để cập nhật thông tin. Đọc sách, nhưng người đọc đang cảm nhận vẻ đẹp của đất nước, những vấn đề của sử dụng tự nhiên,... bằng đủ các giác quan của mình: giữa các dòng chữ là màu sắc, âm thanh, rất chắt lọc qua lăng kính riêng của tác giả. 

GS Lê Bá Thảo là người đề xướng, đưa ra những tư tưởng lớn, người tổ chức nghiên cứu, là linh hồn của tập thể nghiên cứu, và trực tiếp chấp bút các báo cáo tổng kết hai đề tài độc lập và trọng điểm cấp Nhà nước "Tổ chức lãnh thổ đồng bằng sông Hồng và các tuyến trọng điểm" (1992-1994) và "Cơ sở khoa học của tổ chức lãnh thổ Việt Nam" (1994-1996). Bởi vậy, chúng tôi rất vui mừng được giới thiệu với đông đảo bạn đọc hai công trình trên trong Tuyển tập công trình của GS Lê Bá Thảo, với việc biên  tập lại đôi chút cho phù hợp với công tác xuất bản. Việc giới thiệu hai công trình này không chỉ cho thấy khả năng của Địa lí học trong việc giải quyết những vấn đề chiến lược của quốc gia, mà còn cho thấy khả năng tập hợp các nhà khoa học đầu ngành trong giải quyết các vấn đề liên ngành, dưới sự lãnh đạo của nhà địa lí lớn.

Đồng bằng sông Hồng có tầm quan trọng về địa chiến lược (cả về quyền lực, dân số và kinh tế), là một đỉnh trong tam giác Hà Nội - Hồng Kông - Hồ Nam, lại là vùng đã hi sinh nhiều trong chiến tranh. GS Lê Bá Thảo đã rất có lí khi nhấn mạnh điều này "ĐBSH là nơi có nhiều thương binh liệt sĩ nhất nước, nhân dân ở đây chịu nhiều hi sinh và thiệt hại trong chiến tranh, nơi cung cấp nhiều tài lực và vật lực nhất cho công cuộc giải phóng và thống nhất. Không làm cho ĐBSH phát triển động chạm đến tình cảm của hàng chục triệu người trong lãnh thổ đó và của cả nước". Trong điều kiện có sự chậm trễ về nghiên cứu đồng bằng sông Hồng so với các vùng khác trong nước, thì vào thời điểm đó, những nhiệm vụ quan trọng của Đề tài về tổ chức lãnh thổ đồng bằng sông Hồng và các tuyến trọng điểm là (1) Đánh giá được tính hợp lí và bất hợp lí của việc sử dụng kinh tế lãnh thổ ĐBSH về mặt không gian và xét về mặt hiệu ích xã hội; (2) Phân tích các tư liệu theo ngành và theo lãnh thổ, xác định các "nút" trọng yếu cần tác động đến trước mắt để lấy đà cho sự phát triển bền vững và có định hướng; (3) Xử lí các phương án tổ chức lãnh thố khác nhau của vùng ĐBSH và các tuyến trọng điểm, chọn được các phương án thích hợp nhất, định vị được các đối tượng ưu tiên đầu tư, có tính toán đến hiệu quả kinh tế và tác động qua lại đối với môi trường toàn vùng và của trục kinh tế (tuyến trọng điểm) Hà Nội - Hải Phòng - Hòn Gai. Trong đề tài này có nhiều đóng góp mới và đã kịp thời đưa vào thực tiễn ngay trong quá trình triển khai. Một sơ đồ khối về tổ chức lãnh thổ đồng bằng sông Hồng và các tuyến trọng điểm đã được vạch ra với những phát hiện và những khuyến nghị ngày nay vẫn còn nguyên giá trị hoặc đang trở thành hiện thực. Đề tài này đã phát hiện hai á vùng (Bắc và Nam) ĐBSH với những tiềm năng, động lực và triển vọng phát triển khác nhau, đã đề xuất những vấn đề và  chính sách trọng yếu để phát triển đồng đều hơn cho vùng, nhất là các chính sách cần điều chỉnh cho á vùng Nam. Trong sơ đồ khối đã đề xuất khái niệm vùng Hà Nội (mà hiện nay đã có chủ trương lớn của Nhà nước), nhưng đây phải là vùng tăng trưởng được kiểm soát và có giới hạn. Bên cạnh đó là các thủ phủ đối trọng, các đô thị chuyển cái, đô thị mới và các trọng điểm quy hoạch vùng lớn (với những địa điểm được định vị trên sơ đồ). Trong sơ đồ khối này, các tuyến lực đã được phân tích rất rõ ràng, đặc biệt là việc đề xuất các đường trong quy hoạch nâng cấp gấp là đường quốc lộ 10 (từ Ninh Bình tới ngã ba Biểu Nghi), đường 21 (từ Phủ Lý đến Nam Định), đường 39 (nối đường 10 từ Đông Hưng, Thái Bình với đường 5 ở Phố Nối, Hưng Yên). Việc đề xuất nâng cấp gấp đường 10 đã được coi như là một đề xuất chiến lược cho dải kinh tế duyên hải, tạo cơ sở cho sự khởi sắc của "thung lũng công nghiệp" Nam Định - Thái Bình. Trong sơ đồ khối này cũng đã có đề xuất về đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và nhiều đề xuất về chính sách tổ chức lãnh thổ khác.

Đề tài độc lập và trọng điểm cấp Nhà nước "Cơ sở khoa học của tổ chức lãnh thổ Việt Nam" (1994-1996) được tiến hành trong một thời gian ngắn, và như GS Lê Bá Thảo viết trong lời nói đầu, tập thể đề tài được thành lập giống như một "đội đặc nhiệm", phục vụ việc đặt các chủ trương đường lối mới, nhất là để chuẩn bị góp ý kiến cho Đại hội Đảng lần thứ VII. Người đọc ngày hôm nay vẫn còn thấy ở các trang bản thảo của Đề tài này những vấn đề đầy tính tranh luận về phân vùng lãnh thổ Việt Nam, về các vấn đề tổ chức lãnh thổ công nghiệp, các không gian đô thị, tổ chức các tuyến lực cũng như việc hình dung một sơ đồ tổ chức lãnh thổ Việt nam trong những năm đầu của thế kỉ XXI. Người đọc cũng đọc được những phản biện và những lưu ý của GS Lê Bá Thảo và cộng sự về việc xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia như Nhà máy thủy điện Sơn La, Nhà máy lọc dầu Dung Quất...

Cuốn chuyên khảo "Việt Nam - lãnh thổ và các vùng địa lí" được Nhà xuất bản Thế giới xuất bản bằng bốn thứ tiếng (Việt, Anh, Pháp, Trung Quốc). Nhà xuất bản Thế giới đã chọn in bản tiếng Anh trước (năm 1997) và sau đó là các bản tiếng Việt, Pháp, Trung (1998, 1999). Công trình  dày hơn 600 trang đã tổng kết toàn bộ quan điểm khoa học và thành tựu khoa học của Giáo sư. Nó thể hiện rõ sự phát triển trong con đường nghiên cứu khoa học của ông, từ chỗ là một nhà địa mạo, trở thành nhà địa lí tự nhiên tổng hợp và sau đó là nhà tổ chức lãnh thổ. Nó thể hiện ý chí phi thường của ông chống lại bệnh tật và tuổi tác để kịp hoàn thành công trình của đời mình. Tác phẩm này cũng thể hiện những trăn trở của Giáo sư trong việc thúc đẩy địa lí học trở thành khoa học kiến thiết. Các nhà địa lí sẽ còn được dịp chiêm nghiệm những dự báo của Giáo sư trong tác phẩm này. Công trình này đã sớm nhận được sự đánh giá cao ở trong nước và ngoài nước, nhất là ở Pháp và Mĩ.

Giáo sư Lê Bá Thảo đã được Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý:

- Hai huân chương chống Pháp và chống Mĩ;

- Nhiều huy chương của Quân đội và ngành giáo dục, trong đó có Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục;

- Nhiều bằng khen cấp Bộ;

- Danh hiệu thi đua nhiều năm.

- Năm 1986, Giáo sư Lê Bá Thảo đã được phong danh hiệu Nhà giáo ưu tú và năm 2000 được đề nghị xét tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân.

GS Lê Bá Thảo chính thức buông tay bút vào ngày 28 tháng 10 năm 2000. Ngày 2 tháng 11 năm 2000, trong phút tiễn biệt Thầy tại Nghĩa trang Thanh Tước (Hà Nội), tôi nghẹn ngào nói với mọi người có mặt, nói với Trời Đất rằng: Những gì Thầy để lại, đó là tấm gương suốt một đời lao động cật lực, vừa tự học, vừa cống hiến và sáng tạo không ngừng. Đó là trách nhiệm công dân của một nhà trí thức lớn trước những lo toan của đất nước. Đó là lòng trung thực, khảng khái của nhà khoa học. Đó là những công trình mà Thầy để lại cho đời sau. Đó là niềm tin mà Thầy đã đặt vào các thế hệ học trò của Thầy và các đồng nghiệp của Thầy.

Giáo sư Lê Bá Thảo, một người thầy, người anh, một đồng nghiệp, một nhà khoa học, một người bạn mà hình ảnh mãi mãi đi cùng năm tháng, cùng với sự trưởng thành của khoa học Địa lí và nền giáo dục nước nhà.

 

(Thu 2000 - Thu 2005)

Theo: dialy.dhsphn.edu.vn

17-02-2012